Thế nào là chứng cứ giả?
Điều 80 Luật Tố tụng Hành chính 2015 quy định về chứng cứ trong vụ án hành chính như sau: Chứng cứ trong vụ án hành chính là những gì có thật được đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Một số đặc điểm của chứng cứ trong vụ án hành chính:
- Chứng cứ phải đảm bảo tính khách quan. Tính khách quan được thể hiện ở chỗ các tình tiết, sự kiện về tính hợp pháp của đối tượng khiếu kiện trong vụ án hành chính là những gì có thật, chúng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của các chủ thể chứng minh trong vụ án hành chính.
- Tính liên quan của chứng cứ. Chứng cứ được Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm hại bởi đối tượng khởi kiện; tính hợp pháp, có căn cứ đối tượng khởi kiện, của yêu cầu khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án có thể thu thập được rất nhiều tài liệu, chứng cứ khác nhau nhưng chỉ những tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án, làm sáng tỏ những vấn đề cần chứng minh về tính hợp pháp của đối tượng tranh chấp trong vụ án mới được công nhận là chứng cứ.
- Tính hợp pháp của chứng cứ. Tính hợp pháp này thể hiện thuộc tính pháp lý của chứng cứ, chứng cứ phải được thu thập từ các nguồn hợp pháp, đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính. Việc không tuân thủ theo quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ sẽ làm mất giá trị chứng minh của chứng cứ.
Ba đặc điểm nói trên của chứng cứ nói chung và chứng cứ trong vụ án hành chính nói riêng là một thể thống nhất, có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, nếu thiếu một trong ba đặc điểm trên thì không được coi là chứng cứ.
Phát hiện chứng cứ giả thì phải làm gì?
Khi phát hiện chứng cứ giả có thể làm Đơn tố cáo gửi đến Tòa án. Người đưa ra chứng cứ đó có quyền rút lại hoặc không rút lại chứng cứ đã đưa ra. Nếu người đưa ra chứng cứ không rút lại thì người tố cáo có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Tòa án có quyền quyết định trưng cầu giám định (khoản 1 Điều 90 Luật Tố tụng Hành chính 2015).
Thủ tục giám định được quy định tại Điều 89 Luật Tố tụng Hành chính 2015 như sau:
- Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
- Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, những vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.
- Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa rõ ràng thì theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám định, triệu tập người giám định đến phiên tòa để trực tiếp trình bày về nội dung liên quan.
- Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định giám định bổ sung trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ án đã được kết luận giám định trước đó.
- Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.
Như vậy, khi một bên đương sự phát hiện chứng cứ bên kia đưa ra là giả mạo trong vụ án hành chính thì đương sự đó có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo.
Trách nhiệm của người đưa ra chứng cứ giả mạo
Trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Đồng thời, người đưa ra chứng cứ được kết luận là giả mạo phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây thiệt hại cho người khác và phải chịu chi phí giám định nếu Tòa án quyết định trưng cầu giám định định (khoản 2 và khoản 3 Điều 90 Luật Tố tụng Hành chính 2015).
Trên đây là bài viết về vấn đề “Phát hiện chứng cứ giả trong vụ án hành chính thì phải làm gì?”. Hãy liên hệ với Luật sư của chúng tôi nếu bạn đang có thắc mắc và cần giải quyết các vấn đề về pháp luật: Luật sư Phan Mạnh Thăng. Hotline: 0908748368 để được tư vấn miễn phí.