Viện Kiểm sát đồng thuận lớn với người dân
Trước đó, báo Tuổi trẻ Thủ đô đã có loạt bài phản ánh về việc UBND TP Vũng Tàu bị tố “cố tình” trì hoãn, không chịu thi hành án, khiến bà Trần Thị Hương (ngụ Phường 3, TP Vũng Tàu) rơi vào tình cảnh “đội đơn” đi đòi công lý suốt thời gian dài.
Sau 5 năm kể từ ngày bản án phúc thẩm (năm 2013) của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT) có hiệu lực pháp luật, ngày 17/9/2018, UBND TP Vũng Tàu đã ban hành Quyết định số 6938/QĐ-UBND (QĐ bồi thường về đất) về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ (bổ sung) cho bà Hương.
Tuy nhiên, nhận thấy quyết định trên có nhiều sai sót nghiêm trọng về vị trí đất và giá bồi thường, ngày 29/11/2018, bà Hương đã làm đơn khiếu nại.
Đến ngày 7/8/2019 (tức hơn 8 tháng sau), Chủ tịch UBND TP Vũng Tàu mới ra Quyết định số 3824/QĐ-UBND (QĐ giải quyết khiếu nại) bác toàn bộ nội dung khiếu nại trên của bà Hương.
Không tìm được tiếng nói chung, nhận thấy quyền lợi của mình tiếp tục bị xâm hại, bà Hương đã khởi kiện cả hai Quyết định trên của Chủ tịch và UBND TP Vũng Tàu ra TAND tỉnh BR-VT.
Ngày 17/6 vừa qua, TAND tỉnh đã mở phiên tòa xét xử vụ án “Khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai” trên.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân (VKS) tỉnh BR-VT phát biểu quan điểm: Về vị trí đất bồi thường, VKS cho rằng theo các quyết định của UBND Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (tỉnh BR-VT ngày nay) thì dự án cụm ki-ốt, bãi đậu xe có mặt tiền đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (NKKN). Theo quy định pháp luật đất đai thì phải xác định “dự án cụm ki-ốt, bãi đậu xe diện tích 8.532m2” là “thửa đất” có vị trí mặt tiền đường NKKN. Do đó, việc tách riêng phần ki-ốt của bà Hương để cho rằng phần đất này không có lối ra đường NKKN (phải đi qua bãi đậu xe) nên thuộc vị trí 5 là không đúng quy định pháp luật đất đai, không phù hợp công năng sử dụng của dự án (thửa đất), gây thiệt hại cho bà Hương.
Về giá đất bồi thường, VKS cho rằng các quyết định trước đây không theo quy định của Luật Đất đai (phương án bồi thường về đất cho bà Hương bằng 0 đồng) đã bị tòa án tuyên hủy. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thì chậm thi hành án, đến trước ngày 1/7/2014 cũng chưa có phương án bồi thường cho bà Hương. Do vậy, vụ việc không thuộc trường hợp áp dụng khoản 6, Điều 34, Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ (được bổ sung tại khoản 8, Điều 4, Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 6/1/2017 của Chính phủ) về bồi thường chậm là giá theo bảng giá đất của UBND tỉnh.
Đến ngày 17/9/2018, UBND TP Vũng Tàu mới ban hành quyết định bồi thường về đất cho bà Hương thì phải xác định giá đất thị trường theo Luật Đất đai năm 2013, không phải theo bảng giá đất của UBND tỉnh. Do đó, theo VKS, Quyết định bồi thường về đất cho bà Hương năm 2018 nhưng theo bảng giá đất 5 năm của UBND tỉnh là không đúng.
Riêng về phần diện tích đất, đại diện VKS xác định, diện tích 138,3m2 thu hồi theo sơ đồ trích lục bản đồ địa chính (phục vụ dự án) là đúng quy định.
Bản án rất được lòng dân
Đồng quan điểm với VKS, Hội đồng xét xử (HĐXX) TAND tỉnh BR-VT còn chỉ rõ: Về vị trí đất, theo Quyết định về việc phê duyệt thiết kế dự toán và cho phép xây dựng cụm ki-ốt, bãi đậu xe Vũng Tàu, vị trí xây dựng là trong khu vực bãi đậu xe theo bản vẽ tổng mặt bằng kèm theo, thì thửa đất diện tích 8.532m2 thuộc “dự án cụm ki-ốt, bãi đậu xe” có vị trí mặt tiền đường NKKN (chiều sâu tính từ mặt tiền đường NKKN vào lần lượt 2 bên là 48m và 45m).
Bên cạnh đó, Sổ bộ thuế nhà, đất qua các thời kỳ được bà Hương nộp thuế đều theo vị trí 1, đường loại 1 đường NKKN.
Đặc biệt, theo HĐXX, Quyết định số 3564/QĐ-UBND ngày 30/12/2010 của UBND tỉnh về việc phê duyệt giá đất cho thuê đối với diện tích đất trên cũng xác định diện tích thu hồi 12.862,7m2 chỉ có 2 vị trí: Vị trí 1 và vị trí 2 đường loại 1, đường NKKN.
Từ những căn cứ trên, HĐXX xác định vị trí đất thu hồi của bà Hương trong thửa đất diện tích 8.532m2 “dự án cụm ki-ốt, bãi đậu xe” có vị trí mặt tiền đường NKKN.
Về giá đất, HĐXX nhận thấy, khi thu hồi đất của bà Hương từ năm 2008 đã xác định phương án bồi thường cho bà Hương là 0 đồng. Các quyết định phê duyệt phương án bồi thường đối với bà Hương trước đây không theo quy định của Luật Đất đai nên đã bị Tòa tuyên hủy.
Sau khi Bản án phúc thẩm số 16 ngày 20/6/2013 của TAND tỉnh BR-VT có hiệu lực, đến trước ngày 1/7/2014, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng chưa có phương án bồi thường theo quy định cho bà Hương.
Đến ngày 17/9/2018 (sau 5 năm ngày bản án có hiệu lực), UBND TP Vũng Tàu mới có phương án bồi thường bổ sung cho bà Hương.
Do đó, việc UBND TP Vũng Tàu căn cứ vào khoản 6, Điều 34, Nghị định 47/2014/NĐ-CP để áp dụng chính sách bồi thường chậm thực hiện theo quy định của pháp luật đất đai trước ngày 1/7/2014, cụ thể là chính sách bồi thường, hỗ trợ theo quy định tại thời điểm thu hồi đất và giá đất theo bảng giá đất tại thời điểm tính toán bồi thường bổ sung là không có căn cứ.
Mặt khác, theo HĐXX, khoản 8, Điều 4, Nghị định 01/2017/NĐ-CP áp dụng cho trường hợp bồi thường chậm, còn bảng giá đất không áp dụng khi Nhà nước thu hồi theo quy định tại khoản 2, Điều 114, Luật Đất đai 2013. Thêm vào đó, tại phiên tòa, người bị kiện cũng không cung cấp được quyết định nào thể hiện đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định cho bà Hương trước ngày 1/7/2014, cũng như chưa thực hiện chi trả tiền bồi thường.
Ngoài ra, HĐXX thấy rằng, căn cứ các quyết định liên quan việc cho Công ty TNHH Vui chơi giải trí và Du lịch Thái Dương (sau này là Công ty TNHH Vui chơi giải trí Thái Dương - Vũng Tàu) thuê đất đầu tư xây dựng Trung tâm thương mại Thái Dương, thì toàn bộ diện tích cho thuê (12.862,7m2) chỉ gồm có 2 vị trí: Đường loại 1 vị trí 1 có đơn giá hơn 30 triệu đồng/m2 và đường loại 1 vị trí 2 có đơn giá hơn 18 triệu/m2 (trong khi đó, UBND TP Vũng Tàu lại bồi thường về đất cho bà Hương tại vị trí 5 với giá chỉ hơn 4 triệu đồng/m2 - PV).
Ngoài ra, theo HĐXX, các báo cáo của Thanh tra TP Vũng Tàu (Báo cáo số 240 ngày 17/6/2019; Báo cáo số 274 ngày 17/7/2019) đều kết luận phải bồi thường đất ở cho bà Hương theo giá thị trường, theo Luật Đất đai 2013.
Do đó, HĐXX kết luận, giá bồi thường (4.278.000đ/m2) theo bảng giá đất 5 năm của UBND tỉnh mà UBND TP Vũng Tàu áp dụng là không đúng. Việc yêu cầu bồi thường theo giá thị trường của bà Hương là có cơ sở chấp nhận.
Từ những chứng cứ, kết quả tranh tụng và phân tích nêu trên, Bản án sơ thẩm số 18/2020/HC-ST ngày 17/6 của TAND tỉnh BR-VT đã tuyên xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hương: Hủy Quyết định bồi thường về đất của UBND TP Vũng Tàu; Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND TP Vũng Tàu về nội dung xác định vị trí và giá đất bồi thường; Đồng thời, buộc UBND tỉnh BR-VT và UBND TP Vũng Tàu lập, thẩm định, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 đối với diện tích đất thu hồi là 138,3m2 của bà Hương theo vị trí thửa đất diện tích 8.532m2 “dự án cụm ki-ốt, bãi đậu xe”, có vị trí mặt tiền đường NKKN và xác định giá đất cụ thể để bồi thường cho bà Hương theo quy định pháp luật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét